Hoài Trúc

Chương 1



1

Giữa ngày hè nóng nực, ve kêu râm ran.

Từng giọt nước đọng dưới mái hiên rơi tí tách, vang lên từng tiếng bộp bộp.

Ta che một chiếc ô bằng trúc xanh, trong tay nải đựng hũ tro cốt của mẹ, từng bước một bước ra từ cửa hông Bùi phủ.

Gã gác cổng đang nằm dài lười biếng, thấy thế mới hất mi mắt lên hỏi:

"Phu nhân định dùng xe ngựa sao?"

"Chỉ là hôm nay các chủ tử đều ra ngoài dự yến, chỉ còn loại xe hạng xoàng, phu nhân trả nửa thẻ tính là được."

Ta lắc đầu từ chối.

Đã không trở lại nữa, còn ngồi xe làm gì.

Chỉ nghe sau lưng có người khẽ nhổ một tiếng, lẩm bẩm:

"Đồ nghèo kiết xác…"

Trong lòng ta chẳng dậy nổi sóng, chỉ cẩn thận suy tính: đi Phủ Châu thì đi thuyền hay theo đoàn thương buôn thì hơn.

Kẻ dưới hành sự vốn là nhìn sắc mặt chủ nhân.

Bùi Dĩnh không ưa ta, bọn hạ nhân cũng coi ta như khách trọ tạm thời đến Bùi phủ kiếm chác.

Ta tuy chẳng phải nô bộc, nhưng cũng từng nhìn thấy đủ loại sắc mặt người đời.

Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng quyết định tới thương hành dò hỏi trước.

Dù sao mẫu thân khi còn sống chưa từng đi thuyền, ta sợ bà trên trời nhìn xuống cũng sẽ thấy say sóng.

Phố xá Yến Kinh hôm nay thật nhộn nhịp.

Người đi kẻ lại tấp nập, ngay cả ăn mày cũng dám đứng chặn cầu xin cơm.

Ta cẩn trọng, bỏ ra hai đồng tiền nhỏ hỏi han được một thương hành gốm sứ có tiếng sắp xuất phát, vừa khéo sẽ đi ngang qua Phủ Châu.

Cửa hiệu của thương hành đó nằm ngay bên cạnh Phàn Lâu.

So với nơi được xưng tụng là tửu lâu đệ nhất thiên hạ kia, nơi đây cũng không quá đông đúc.

Ta đang mặc cả với chưởng quầy, bỗng nghe thấy một giọng nói quen thuộc vang lên.

"Cái trâm cài đầu điểm ngọc ấy đã đưa đến nhà họ Thẩm chưa?"

Là Bùi Dĩnh.

Ta ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy hắn khoác một thân trường bào gấm xanh nhạt, lưng đeo ngọc bội, tuấn mạo như ngọc, trên mặt còn mang theo ý cười nhàn nhạt, từ Phàn Lâu thong thả bước ra.

Gã tùy tùng đi cạnh cúi đầu khom lưng nói:

"Tự nhiên đã đưa tới rồi! Thẩm cô nương mừng rỡ lắm! Chỉ là..."

"Chỉ là phu nhân cũng có mặt, sắc mặt trông không tốt lắm, công tử có muốn giải thích một câu?"

Một vị công tử khác phe phẩy quạt, lắc đầu nói:

"Vung ngàn vàng đổi lấy nụ cười giai nhân vốn là giai thoại, tẩu tử có ý kiến thì sao chứ, chẳng lẽ Bùi huynh lại sợ vợ à?"

Nghe vậy, đôi mày kiếm của Bùi Dĩnh hơi chau lại, ý cười cũng nhạt đi không ít.

"Nàng ăn của ta, dùng của ta, còn muốn có ý kiến gì."

"Huống hồ Thẩm Ly Ân là tỷ tỷ nàng, cũng nên độ lượng một chút."

Ta đứng yên trong tiệm, ngây người hồi lâu.

2

E rằng chẳng còn mấy ai nhớ, ta và tỷ tỷ cùng sinh một ngày, ngay cả giờ sinh cũng chẳng lệch là bao.

Chỉ là con gái trưởng đích thì dễ nghe hơn con gái trưởng thứ.

Phụ thân vung tay một cái, Thẩm Ly Ân liền trở thành tỷ tỷ danh nghĩa của ta.

Nàng trời sinh kiêu căng, lớn lên như trong mật ngọt.

Mà ta thì bụng to trời sinh, ăn no đã là điều xa xỉ.

Mẹ ta thân thể suy nhược, sau khi sinh ta liền thất sủng, quanh năm bệnh tật triền miên.

Tiền trợ cấp hàng tháng đều dùng để mua thuốc, làm gì còn dư mà lo bếp núc.

Mẹ ta hiền lành khéo léo, thỉnh thoảng dùng vải vụn may cho ta vài món trâm hoa nhỏ, có lần bị tỷ tỷ thấy được, không nói hai lời liền cướp lấy từ tay ta.

Ta tranh giành với nàng, nàng liền khóc lóc th/ảm th/iết, cây roi trúc trong tay phụ thân lập tức qu//ấ/t x/uố/ng người ta.

Kế mẫu chẳng nói gì, chỉ lạnh lùng liếc ta một cái.

Ta mơ hồ cảm thấy mình đã làm sai, nhưng lại chẳng biết mình sai ở chỗ nào.

Trở về sân nhỏ, mẫu thân xưa nay luôn dịu dàng, vậy mà bắt ta quỳ ngoài trời lạnh mấy canh giờ.

Trời đông giá rét, bà run rẩy vuốt ve vết thương trên người ta, nước mắt rơi ướt đẫm áo.

"Ly Trúc, nhớ kỹ, sau này không được tranh giành với người khác."

"Mẹ vô dụng, chẳng bảo vệ được con..."

Từ đó, ta học được cách nhẫn nhịn.

Thế nhưng ngày tháng vẫn càng lúc càng khó sống, cháo từ phòng bếp ngày càng loãng, đến cả tiền trợ cấp cũng bị nô tài ác độc ăn chặn.

Khi ấy hai nhà Thẩm – Bùi qua lại thân thiết, sau khi hứa hôn, mỗi dịp lễ Tết Bùi Dĩnh đều tới nhà bái phỏng.

Có một lần vừa khéo bắt gặp cảnh ta tranh cãi với hạ nhân.

Có lẽ khi đó hắn còn mang chút khí khái thiếu niên, cũng có thể là tiện tay mà thôi.

Tóm lại, tên nô tài ấy bị thiếu niên Bùi Dĩnh trừng phạt.

Ta thường như con sóc sống trong bóng tối, len lén nhìn hắn đưa tỷ tỷ đi thả diều, trong lòng âm thầm gieo một hạt giống mang tên khát khao.

Nhưng chưa bao giờ dám nghĩ rằng, có một ngày, thiếu niên diện mạo như ngọc ấy sẽ trở thành phu quân của ta.

3

Khi ấy, tân hoàng vừa đăng cơ.

Bùi gia chọn sai phe, tước vị từ hầu phủ bị giáng xuống bá phủ, ngay cả vị Bùi tiểu lang quân từng phong quang hiển hách cũng ngã ngựa bị thương, đôi chân thành tật.

Phụ thân xưa nay coi trọng danh tiếng, chẳng cam lòng lui hôn vào lúc ấy, lại cũng chẳng nỡ để đích tỷ chịu khổ, thế nên mới nhớ đến ta.

Lần đầu tiên, trên gương mặt nghiêm khắc kia của ông ta hiện lên vẻ từ ái.

Tựa như chiếc mặt nạ đội lên đầu con rối trên sân khấu, phô trương mà giả tạo.

Ông ta vuốt râu thở dài:

“Ly Trúc cũng lớn chừng này rồi, cũng nên gả chồng thôi.”

Kế mẫu dịu dàng nghiêng người lại gần, vỗ vỗ mu bàn tay ta, giọng nói đầy hàm ý:

“Ta biết con là một hài tử hiếu thuận, chắc hẳn cũng muốn di nương của con sống tốt phải không?”

“Chỉ cần con chịu gả sang Bùi gia, ở yên bên đó, tiền thuốc của bà ấy có thể ghi vào sổ công.”

Ta ngẫm nghĩ hồi lâu, rốt cuộc cũng gật đầu đồng ý.

Chẳng bao lâu sau, ta khoác lên người bộ hỉ phục không vừa, mang theo mười rương hồi môn mỏng manh, gả đến làm nương tử của Bùi Dĩnh.

Ta từng mong mỏi bản thân có thể cùng phu quân sống những ngày hòa thuận mỹ mãn, chí ít cũng có thể tôn trọng lẫn nhau.

Nào ngờ ngay đêm tân hôn, Bùi Dĩnh liền nổi giận, đập nát nến phượng và chén rượu, lạnh lùng quát:

“Hừ, nhà họ Thẩm các ngươi giỏi thật đấy, mang một thứ nữ đến bịt miệng ta.”

“Vừa giữ được danh tiếng, vừa để ta nuôi một kẻ ăn không ngồi rồi, thiên hạ này thật có chuyện tốt như thế sao.”

Ta xấu hổ cúi đầu, trong lòng chỉ nghĩ đến mẫu thân, đành mặt dày ở lại.

“Ta… ta làm gì cũng được, sẽ không ăn không của ai.”

Hắn nghĩ ngợi một lúc, liền lấy từ trên giá xuống một nắm thẻ tính, đưa cho ta, đôi mắt phượng dài hẹp chan chứa trào phúng.

“Tốt thôi, Bùi phủ không nuôi người nhàn rỗi. Ngươi muốn ở lại đây, ăn uống dùng đến cái gì, đều phải lấy thẻ tính mà trả.”

Một thẻ đổi được một bữa cơm, hai ngày chỗ ở.

Ngay cả vải thay nguyệt sự cũng phải dùng thẻ mà đổi.

Còn xiêm y ta tự tay may, giày dép ta tự tay làm, lại không đáng giá nửa thẻ.

Chỉ có khi ta lo liệu trong ngoài chu toàn, khiến Bùi Dĩnh hài lòng, hắn mới ban thêm một ít.

Thế nhưng ta tính toán tới lui, vẫn chẳng thể ăn no, khiến người ta buồn bã khôn nguôi.

Vào đông, lạnh đến tê cả tay chân, thẻ tính trong tay không đủ đổi lấy than sưởi, ta đành hạ giọng, hỏi hắn có thể ứng trước một ít được không.

Bùi Dĩnh chẳng nói đồng ý cũng chẳng từ chối, chỉ cười nhạt:

“Loại nữ tử như ngươi, ta thấy nhiều rồi, rõ ràng không có khí tiết gì, lại cứ thích gắng gượng làm bộ làm tịch.”

Dứt lời, hắn tiện tay viết ra một phong hòa ly thư, ngữ khí khinh miệt:

“Nếu ngươi chịu quay về Thẩm gia, ta tặng trăm sọt than cũng chẳng tiếc.”

Ta im lặng cất phong giấy mỏng có tên hắn viết trên đó, lòng thầm nghĩ: khí tiết đâu có thể dùng thay thuốc. Không có cũng chẳng sao, chỉ cần mẫu thân khỏi bệnh là được.

Ta đã chịu đựng mấy mùa đông như thế.

Nếu không phải vì đã lâu mẫu thân không có thư từ báo bình an.

Nếu không phải khi ta về Thẩm gia dự tiệc, tận mắt thấy hắn dùng nghìn vàng mua trâm điểm ngọc tặng đích tỷ.

Nếu không phải trong yến tiệc, ánh mắt chỉ trỏ của mọi người thực sự khiến người khó lòng nuốt trôi.

Có lẽ ta cũng chẳng nảy sinh cái ý định rời đi.

4

Thời gian ta hẹn với lão bản thương hành gốm là giờ Mão ngày hôm sau.

Trời vừa hửng sáng, một vầng thái dương đỏ rực từ bên bờ sông chầm chậm nhô lên.

Người trong đoàn thương hành không ít.

Những món gốm tinh xảo đều được bọc vải mềm, đặt trong khung gỗ, rồi đẩy lên xe ngựa. Khoảng trống còn lại để dành cho hành khách ngồi chen vào.

Người dẫn đầu vung roi cảnh cáo:

“Đều phải giữ tay giữ chân cho sạch sẽ! Đồ không nên đụng thì đừng có đụng, nếu không thì đừng trách ta không khách khí!”

Mọi người rối rít đáp vâng.

Ta trong người túng thiếu, đành kiêm luôn nửa phần công việc bếp núc dọc đường để được miễn giảm một nửa lộ phí.

Về sau quen thân hơn, có người còn đùa giỡn:

“Tiểu nương tử khéo tay như vậy, sau này nhất định sẽ cưới được lang quân khôi ngô cho xem!”

Trên đường cũng chẳng phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, may mà đám đạo tặc gặp phải đều không có bản lĩnh gì.

Có lần chúng ta còn bắt gặp một đội kỵ binh trên quan đạo, khí thế hùng hổ, không rõ đang đi về đâu.

Ta mở mang được không ít cảnh tượng chưa từng thấy, nỗi bức bối trong lòng dường như cũng dần tan biến, số lần nhớ đến Bùi Dĩnh cũng ít đi.

Đến khi đặt chân đến Phủ Châu, đã là giữa tháng Chín.

Chiếc lá hạnh rơi trên vai đã bắt đầu vàng úa nơi mép lá.

Người dẫn đầu thương đội tặng ta một chiếc chén sứ nhỏ, chẳng đáng bao nhiêu tiền, nhưng lại chất chứa tấm lòng.

Ta nâng niu bỏ vào hành lý, chắp tay nói:

“Chúc các hạ thượng lộ bình an.”

Phủ Châu tiếp giáp vận hà, là một chốn thủy hương dịu dàng, êm đềm.

Ta dò hỏi được địa chỉ quê nhà của mẫu thân, mới hay rốt cuộc vẫn phải đi thuyền.

Trên chiếc thuyền nhỏ mui đen, có một lão ông đang chống sào, mỉm cười vẫy khách:

“Hai đồng, hai đồng, chuyến cuối trong ngày đây!”

Ta vội vã lên thuyền, sợ lỡ chuyến.

Thuyền đi được nửa đoạn, bất chợt chao đảo, lão ông chống sào kinh hô:

“Dưới kia có người!”

Chương tiếp
Loading...