Mời bạn CLICK vào liên kết bên dưới và
Mở Ứng Dụng Shopee để mở khóa toàn bộ chương truyện!
Trùng Sinh Từ Hôn
Chương 9
Nghe họ oán giận thay mình, nàng chợt dừng chân, môi hơi nhếch.
Đã tự nhắc bản thân: tương lai đường nàng đi, tự nàng đảm đương, chẳng còn vướng víu.
Chàng thành thân thì chúc chàng bách niên giai lão, tỷ muội xưởng thêu còn trông mong nàng đứng dậy, sản nghiệp Tống gia chỉ vừa mở đầu!
“Thu Hà, ta đói, ta muốn ăn chân giò!”
Một câu nói vang rồi nàng mở rương lấy hộp bạc, “Hôm nay vui, thưởng, thưởng hết!”
Tỷ muội đều mong nàng sớm phấn chấn, thấy thế liền phụ họa.
Tấm biển vàng Thái hậu ban “Cung thêu Tống gia” được treo lên, trước cửa đốt pháo ăn mừng, trĩ tử ríu rít chạy đến nhao nhao xin lì xì, rộn ràng vô kể.
Nhưng khu đông chợ còn xôn xao hơn.
Một đoàn rước dâu gõ trống khua chiêng, giữa đường phố tuyết bay ngợp.
“Nghe bảo Ấp Bách Hầu cưới vợ!”
“Gia tộc này khéo chẳng e ngại gì, trưởng tử chết thảm như thế, cô dâu hai không sợ khắc chồng sao?”
“Dù thế nào cũng là việc nhà họ, người ta cam tâm, chúng mình mau tới Hầu phủ, chậm chân e hết lộc!”
Đám đông lúc nãy còn vây quanh xưởng thêu nay ùa đi về hướng Giang gia.
Chỉ còn đám pháo giấy vương khắp tuyết như đóa mai rơi.
“Tiểu thư...” Thu Hà khẽ gọi, e rằng lòng nàng chưa dứt nỗi tơ vương, sợ lại tổn thương.
“Không sao.” Tống Cẩm Thư khẽ cười: “Hai hôm nữa đón năm mới, mùa xuân sang ta sẽ rời kinh. Cửa tiệm ở đây giao lại Tử Tô trông nom.”
Hôn lễ Hầu phủ lớn thế, sao giấu được tai mắt khắp nơi.
Đôi lúc chị em cố tránh nhắc, song khách khứa vào đặt thêu, ai cũng tỏ vẻ hiếu kỳ, hỏi có đúng Hầu gia cưới mà không hành lễ bái đường, rằng mọi sự lạ lùng.
Còn nghe đâu đêm giao thừa, Hầu gia chẳng lộ diện.
Có người đồn Hầu gia chưa cứu được, chết hay sống không rõ, thế nhưng triều đình vừa mới phong tước, lại ban kim bài miễn tử, càng thổi bùng đồn đoán mờ mịt.
Tống Cẩm Thư không để tâm, sang mồng Hai tết, nàng ra mộ phụ thân thấp nén hương, rồi dứt khoát rời kinh.
Tháng hai, xuân chớm, vạn hoa bung nở.
Trong Phù Tô Các Hầu phủ, Tần Tri Yến cầm tấm chăn mỏng đắp lên hai chân nam nhân, “Hầu gia đành nguyện sống dưới cùng bầu trời với nàng, nhưng suốt đời không gặp ư?”
Nam nhân chẳng còn phong thái hiên ngang ngày xưa, ngồi tựa xe lăn, đưa tay vuốt viền chăn, “Ta lành lặn mà nàng chẳng đoái hoài, huống hồ nay thành kẻ phế?”
Chân chàng... đã cụt.
Dưới lớp mền, từ đầu gối trở xuống trống hoác, cả đời không thể đứng dậy.
“Nếu ta nói, năm xưa ta cố ý ép đệ muội bỏ đi?” Tần Tri Yến nhìn chàng đầy xót xa. “Ta mong tỏ ra yếu đuối, ngỡ chàng sẽ càng thương hại ta hơn.”
Nàng ta từng ghen tị Tống Cẩm Thư.
Đều là dâu Hầu phủ, vậy mà Giang Dục Hành lại chỉ đích danh muốn rước Tống Cẩm Thư vào cửa. Nếu không, với xuất thân thương hộ, làm gì nàng kia có cơ hội trèo cao.
Ai ngờ Tống Cẩm Thư đảm đang tài giỏi, vô hình trung khiến Tần Tri Yến trở nên yếu ớt, nhỏ bé.
Cứ so sánh rồi mừng thầm vì mình được Giang Dục Hành thiên vị, cho rằng Tống Cẩm Thư tuy giỏi giang nhưng chẳng có được tâm chàng.
Nào ngờ, Tống Cẩm Thư để lại giấy hòa ly, thật sự rời phủ.
Để rồi hôm nàng xuất hiện ở buổi tuyển thêu, sáng lấp lánh như viên minh châu...
Tần Tri Yến chợt nhận ra, sự yếu đuối vô năng của mình chẳng liên can gì Tống Cẩm Thư, mặc kệ nàng ta làm gì cũng chẳng thể xóa mờ ánh hào quang mà Tống Cẩm Thư tự mang.
Một bước sai lầm, khởi từ chấp niệm vụn vặt, khiến cả đời hối hận.
Lời nàng nói chẳng hề chạm đến Giang Dục Hành.
Chàng ngó Tần Tri Yến, chậm rãi lấy từ trong lòng ra chiếc túi hương “Ám Hương Sơ Ảnh,” rồi cười nhạt: “Nếu được chọn lại một lần, ta vẫn sẽ che chở cho nàng, ta nợ nàng, nợ cả đại ca”.
Chàng và đại ca thuở ba tuổi đã theo phụ thân học võ
Đại ca bảy tuổi băng qua hiểm địa Man Di, mười hai tuổi binh pháp như thần.
Năm đó, hai huynh đệ đồng tâm dẹp giặc, Giang Dục Hành lại vô ý hại đại ca bỏ mạng.
Dẫu chẳng phải chính tay chàng tước đoạt sinh mạng huynh trưởng, nhưng trách nhiệm chẳng thể chối từ, vì chàng, Tần Tri Yến thành quả phụ ngay khi tân hôn.
Cây trâm ngọc châu của Tần Tri Yến vốn do đại ca tặng.
Chàng chẳng rành cách cưng chiều nữ tử, chỉ nghĩ thê tử mình cũng nên được sở hữu thứ tương tự, nhưng giẫm khắp núi sông vẫn không tìm đâu ra trâm quý hơn nên đành để Thư nhi phải chịu thiệt thòi.
Rốt cuộc là từ lúc nào nàng động ý rời xa, chính chàng đến nay vẫn chưa hiểu.
Có lẽ, đêm tân hôn, chàng tưởng nhớ đại ca, chẳng qua nổi cánh cửa ấy.
Chàng leo lên mái ngói, ngồi suốt một đêm, vừa uống rượu vừa rưới rượu xuống nền gạch xanh, người âm kẻ dương, nếu huynh trưởng còn sống, nhà cửa biết bao vui vầy.
Hoặc giả sau này khi Nam Di xâm lấn, thế như chẻ tre, chàng vì không muốn làm ô danh Ấp Bách Hầu đành khoác giáp xung trận.
Phụ thân mất sớm, huynh trưởng cũng âm dương cách biệt, dẫu máu chảy thành sông, chàng vẫn phải gánh vác trọng trách Ấp Bách Hầu Phủ.
Vùng Nam Di núi cao vực thẳm, suýt chút nữa chàng cùng binh sĩ lạc sâu nơi núi thẳm, kẻ địch tráo trở, ẩn tây đánh đông, chàng bèn cắt đứt lương thảo, gắng sức chịu đựng, đợi chúng lòng quân rệu rã mới lần lượt đập tan.
Ngày khải hoàn, chàng tìm đến Xuân Thảo Đường trước, dâng hương cho đại ca.
Không hiểu sao, Thư nhi mà chàng cưới về vốn chu đáo hết lòng, bấy giờ trở nên hờ hững xa cách.
Hai năm dầm sương gội gió, niềm mong mỏi lớn nhất của chàng là đọc tin gia quyến từ nhà.
Chỉ cần nàng gói ghém đôi dòng bình an, ấy chính là tín niệm chàng phải sống để hồi phủ, bởi vẫn còn thê tử nơi quê nhà đợi chàng trở về.
Hoặc cũng có khả năng khác…
Nàng đã yêu kẻ khác.
Bởi thế, sau khi rời khỏi chàng, Tống Cẩm Thư dính líu chẳng rõ ràng với Văn Tố.
Nếu vậy, chi bằng chúc nàng đường hoa muôn sắc, chẳng còn bận tâm đến chàng.
Trong bảy năm ròng, Tống Cẩm Thư vươn tay mở rộng cơ nghiệp họ Tống khắp gần trăm chi nhánh, “Tống gia Cung Thêu” danh chấn thiên hạ.
Những thợ thêu ban đầu đã rời xa, kẻ truyền nghề khắp nơi, tỏa rộng ba mươi chín thành, tám mươi hai quận của Nam Chiêu.
Chỉ có Thu Hà bền bỉ từng năm bầu bạn.
“Thu Hà, muội cũng lớn tuổi rồi, chẳng lẽ chưa có lang quân như ý?”.
Hôm ấy hiếm hoi được hồi kinh, Tống Cẩm Thư xắn tay cuốc đất ngoài sân, muốn trồng ít củ khoai.
Nàng giẫm lên lá úa, nhìn chiếc bàn Bát Tiên nơi hiên nhà vẫn quen bày lư hương án.
Thu Hà khom xuống vùi mảnh khoai đã nảy mầm, cười thẹn thùng, “Tiểu thư nói chi lạ, Thu Hà muốn theo tiểu thư cả đời, chẳng xuất giá đâu”.
“Không được, muội đừng nói thế”.
Tống Cẩm Thư đặt chiếc rổ xuống, nhìn Thu Hà đầy nghiêm cẩn: “Ở Bện Bắc Pha hoa đào đang nở rộ, muội mang diều tới biết đâu tìm được duyên lành”.
Theo phong tục bất thành văn ở Nam Chiêu, buổi ngắm hoa xuân mà thiếu nữ cắt đứt dây diều, nếu được nam tử lượm được thì đó là thiên duyên, chàng sẽ dựa tên niêm trên diều mà tìm đến cầu hôn.
Đào nở kín sườn núi, vô vàn cô nương đổ về, tiếng nói cười rộn ràng.
Tống Cẩm Thư dừng chân nơi mép đồi, giúp Thu Hà thả diều theo gió.
Chim yến sổ lồng, nàng trao kéo cắt, bỗng dạ thoáng ngậm ngùi.
Thuở xuân xanh, năm nào nàng cũng tới đây, chuẩn bị diều đầy đủ.
Song ông trời ngược đãi, dây diều nào bị cắt cũng mất dạng, chẳng thấy ai hồi âm.
Chả biết người ta có nhặt được hay bị gió cuốn đi thật.
Có lẽ mối duyên của nàng bị làn gió xuân cuốn đi mất.
Thu Hà vừa cắt dây, con diều chao đảo rơi xuống lưng chừng triền núi, Tống Cẩm Thư giục: “Mau đuổi theo đi!”.
Nàng đưa mắt dõi theo dáng diều rơi, bất ngờ liếc thấy trong vườn đào xa xa có hai thân ảnh.
Một người nữ đẩy xe lăn, tiết xuân nhưng thân còn mặc áo bông.
Nam nhân ngồi trong xe, lặng ngắm cánh hoa rơi đầy cành.
Bên cạnh chàng là một cánh diều quen thuộc, tựa thứ năm xưa nàng thả khi còn xuân sắc.
-HẾT-